Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 thành phần dân tộc khác nhau như Kinh, Thái, Tày, Nùng, Mường, Dao,… chính vì thế không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam được đánh giá là một quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú và đặc sắc.
STT |
Tên dân tộc |
Bản Sắc Văn Hoá |
02 |
Tày Khao* hoặc Đón (Thái Trắng*), Tày Đăm* (Thái Đen*), Tày Mười, Tày Thanh (Mán Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pa Thay, Thổ Đà Bắc, Tày Dọ**, Tay**... Địa bàn cư trú chính ở các tỉnh Sơn La, Nghệ An, Thanh Hoá, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Hoà Bình, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng,... Thái là một trong 54 dân tộc anh em có dân số đông thứ 3 ở Việt Nam. Với dân số rải rác khắp 63 tỉnh thành trên cả nước, dân tộc Thái có những nét phong tục tập quán riêng khiến khách du lịch cảm thấy vô cùng mới lạ. 1. Phong tục tập quán Phong tục xây nhà sàn của dân tộc Thái. Những ngôi nhà sàn làm chủ yếu bằng gỗ, cao ráo và thoáng mát không chỉ là nơi ẩn náu. Đây còn là biểu tượng văn hóa và nét đặc trưng độc đáo của dân tộc Thái. Nhà sàn của người Thái thường nằm trên một mặt bằng hình chữ nhật. Với các lan can bao quanh hoặc trước nhà. Mái vòm của nhà sàn cao và đều đặn, tạo nên một hình dáng độc đáo. Chúng giúp bảo vệ khỏi lũ lụt và sự cản trở của môi trường núi rừng nhiệt đới. Phong tục chọc sàn của dân tộc Thái. “Tục chọc sàn” của người Thái là một nét độc đáo trong văn hóa cầu hôn của họ. “chàng trai thể hiện tình cảm của mình đối với cô gái. Đứng ở đầu sàn, chàng trai thổi sáo, đánh nhị, hoặc thổi vào đàn môi, tạo nên âm nhạc dịu dàng và bắt tai. Đặc biệt, một chi tiết thú vị là chiếc đoạn gỗ dài khoảng 40cm, được dùng để gõ lên sàn. Âm thanh của đoạn gỗ tạo ra nhịp nhàng và cuốn hút, thu hút sự chú ý của cô gái. Nếu cô gái cảm thấy thiết tha và đồng tình, cô sẽ xuất hiện trước chàng trai.” Đây là cách cô gái bày tỏ sự đồng tình và sẵn sàng nhận lời cầu hôn. Chàng trai sau đó sẽ về thưa chuyện với gia đình. Đồng thời đến nhà cô gái để đề nghị hôn nhân. Đây còn là một cách để họ tôn vinh tình yêu và truyền thống lâu đời. Sự lãng mạn và tinh tế của nó làm nên những kỉ niệm đáng nhớ trong cuộc sống của họ. Tục Tằng Cẩu Phụ nữ Thái đen có một phong tục độc đáo để phân biệt giữa người đã có chồng và chưa. Khi một phụ nữ Thái đen lấy chồng, nét đẹp của tóc chính là biểu tượng của trạng thái hôn nhân. Khi đã có chồng, họ buộc tóc lên đỉnh đầu. Lễ tằng cẩu, một phần quan trọng trong lễ cưới, diễn ra với sự tôn trọng và cẩn thận. Chỉ khi chồng chết, phụ nữ Thái đen mới sẵn sàng bỏ tằng cẩu. Thể hiện sự trải qua nỗi đau của mất đi người thân yêu. Phong tục này không chỉ là một phần quan trọng của văn hóa người Thái. Nó còn thể hiện sự quyết tâm trong việc duy trì truyền thống và giá trị gia đình trong cuộc sống của họ. Tục ở Rể của người Thái Khi một chàng trai Thái đến độ tuổi kết hôn, anh ta sẽ tự tìm một người con gái mà anh yêu thương và muốn cùng xây dựng gia đình. Sau đó, anh sẽ nhờ bố mẹ mình mời ông mối đến nhà cô gái để làm mối. Sự hòa thuận và đồng thuận trong gia đình của cô gái đóng vai trò quan trọng. Khi đến, anh mang theo các lễ hội vật. Bao gồm một chiếc áo, một con gà đã mổ, một gói cơm, một chai rượu, và một cái “Toong bai.” “Toong bai” là một dụng cụ được làm bằng sợi dây mây, được cuộn xoắn lại. Đây là nơi mà vía chú rể được cho là trú ngụ trong suốt thời gian ở rể. Thời gian ở rể là một giai đoạn quan trọng trong quá trình này. Chàng trai được đối xử như một thành viên của gia đình của cô gái. Đồng thời tham gia vào các hoạt động gia đình hàng ngày. Thời gian mà chàng trai ở rể có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm, thậm chí là ở mãi tại nhà gái. Tùy thuộc vào sự thỏa thuận và yêu cầu gia đình. Quá trình này thể hiện sự tôn trọng, cam kết và tình cảm gia đình. Đây là một phần quan trọng trong văn hóa lấy vợ của người Thái. 2. Ẩm Thực Những món ăn độc đáo của người Thái như pà pỉng tộp (cá nướng), khảu lam (cơm lam), nhứa mù khủa (thịt lợn hấp), nhứa giảng (thịt trâu hun khói),... Tất cả món ăn của người Thái đều được chế biến từ nguồn nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên. Thịt trâu, thịt bò, cá, gà được người Thái tẩm, ướp gia vị rất cầu kỳ và cẩn thận. Gia vị để ướp là hạt “mắc khén” (một dạng hạt tiêu rừng), ớt, tỏi, gừng, muối... được làm rất công phu khiến người ăn nhớ mãi không quên. Từng món ăn như chứa đựng cả tấm lòng của người Thái gửi gắm vào đó. Những món ăn được chế biến công phu, độc đáo, ẩm thực truyền thống của dân tộc Thái vùng Tây Bắc được xem là cách truyền tải hữu hiệu nhất nét văn hóa của dân tộc./.
Một nét độc đáo trong các món ăn của dân tộc Thái là khi chế biến những món ăn, người Thái hoàn toàn không dùng dầu mỡ và rất chú trọng tới việc điều phối các vị đắng - cay - mặn - chát. Những vị này được phối hợp hài hòa khiến thực khách cảm thấy vừa miệng, không có cảm giác ngấy, ngán khi ăn những món nướng, luộc, hấp, hun khói,....Khi thưởng thức những món nướng của người Thái sẽ thấy vị đậm đà, giàu chất dinh dưỡng. Các món hấp, món luộc có hương thơm đặc biệt cùng vị ngon ngọt. Chỉ riêng cách chế biến món măng của người Thái cũng thật đặc biệt và cầu kỳ. Để có được một bát nước cốt măng chua, họ sẽ ngâm măng vài ba năm để lọc lấy vị ngon lành, chua dịu nhất khi ăn cùng những món ăn khác. Những ai đã từng lên vùng Tây Bắc, khi vào những ngôi nhà của người Thái, đều dễ dàng nhận thấy gia đình nào cũng có sẵn vài chum măng muối chua dành để dùng dần. Mùa nào thức nấy, người Thái đãi khách bằng sản vật được miền đất Tây Bắc hoang sơ và hào phóng ban phát cho như: Nhộng ong, cá suối, măng lay, măng đắng, măng ngọt, cải ngồng… Những phương pháp chế biến món ăn của người Thái hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm từ ngàn xưa để lại và được lưu giữ từ đời này qua đời khác chứ hoàn toàn không có bất cứ trường lớp nào truyền dạy. Chính điều này đã khiến cho những món ăn của người Thái không thể lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác./. 3. Lễ Hội Lễ hội Lùng Tùng, Lễ hội Then Kin Pang, Lễ hội Nàng Han, Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu, Lễ hội Hạn Khuống... là một số lễ hội đặc sắc của người dân tộc Thái. Lễ hội Lùng Tùng Lễ hội Lùng Tùng (Lễ hội xuống đồng) của dân tộc Thái, huyện Than Uyên được tổ chức hằng năm vào dịp tháng Giêng sau Tết, thường diễn ra từ ngày mùng 6 đến mùng 10 tháng Giêng. Lễ hội Lùng Tùng gồm hai phần: lễ và hội. Trong phần lễ diễn ra nghi thức cày bừa, gieo hạt. Chính quyền cùng bà con dân bản xuống đồng tham gia cày bừa, mở đầu cho một năm sản xuất mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, người dân được khỏe mạnh. Trong phần hội, bà con và khách thập phương được tham gia các trò chơi dân gian như: tó má lẹ, bắn nỏ, kéo co, tung còn và giao lưu văn nghệ với những tiết mục hát dân ca, múa xòe, nhảy sạp. Lễ hội Then Kin Pang Hằng năm, cứ vào mùng 10/3 âm lịch, người Thái Trắng ở Lai Châu lại đến xã Khổng Lào, huyện Phong Thổ để dự Lễ hội Then Kin Pang. Truyền thuyết của người Thái trắng kể lại rằng sau Pô Phà (Vua Trời) là Then có lòng bao dung độ lượng, yêu thiên nhiên cỏ cây, con người. Vì vậy, Vua Trời đã phái các thần Then xuống hạ giới đầu thai thành người phàm trần để cứu nhân độ thế. Ai đau ốm thì được Then cho thuốc. Người nào gặp rủi ro, vận hạn, Then sẽ cầu phúc cho tai qua nạn khỏi. Then cũng là người đại diện để cầu nguyện các vị thần linh trên trời tạo phúc cho dân, ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, bản Mường yên vui no ấm. Lễ hội Then Kin Pang là ngày các Lụ liệng-Lụ hương (tức là những người con nuôi được Then cầu hồn, chữa bệnh) dâng lễ tạ ơn Then. Lễ hội Nàng Han Lễ hội Nàng Han được tổ chức vào ngày 15 tháng 2 (âm lịch) hằng năm, tại bản Tây An, xã Mường So, huyện Phong Thổ để tôn vinh, tri ân nữ anh hùng Nàng Han, có công đánh đuổi giặc ngoại xâm của người Thái trắng và mong cầu sự no ấm, cuộc sống an lành, người yên, vật thịnh, mùa màng tươi tốt cho bản làng. Tương truyền, Nàng Han xuất thân trong một gia đình người Thái nghèo ở Chiềng Sa (nay là xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu). Nàng đã cải trang thành nam giới, đứng lên kêu gọi thanh niên trai tráng các bản đoàn kết đánh giặc. Nàng đứng đầu cuộc khởi nghĩa của đồng bào 16 xứ Thái quật cường đánh bại giặc xâm lược phương Bắc. Sau khi dẫn đoàn quân thắng trận trở về, nàng tắm gội ở mó nước Tây An (xã Mường So) rồi bay lên trời. Từ đó, nhớ công ơn của nàng, bà con lập đền thờ và tổ chức lễ hội ngay ở mó nước nàng tắm.
Các cô gái Thái múc nước tại nơi Nàng Han tắm gội sau khi đánh thắng giặc trước khi bay về trời. (Ảnh: Nguyễn Oanh/TTXVN) Lễ hội Nàng Han gồm 6 bài tế lễ, do các thầy mo đảm nhiệm, gồm: Tùng song tơ, Phái lệ tơ, Thá ớc, Thá hu nơ, Then hầu phét, Quát bó héo. Ðặc biệt, trong lễ hội có tới 32 bài múa dân gian của người Thái. Ðúng ngày chính hội, dân làng tập trung trước ngôi miếu thờ Nàng Han để xem hát múa. Các thầy mo cúng lễ ngay ngoài trời. Vật phẩm dâng lên Nàng Han gồm có hoa quả, gà xôi và những tờ giấy bạc của đồng bào Thái. Thầy mo cúng xong thì các cô gái trong đội múa với trang phục váy cóm thướt tha biểu diễn các bài dân ca truyền thống ca ngợi quê hương, tình yêu và công đức của vị nữ tướng anh hùng. Phần hội khá sôi nổi và rầm rộ với các trò chơi dân gian phổ biến trong các ngày hội của đồng bào dân tộc như: đẩy gậy, kéo co, tung còn... Ðặc biệt, trò chơi thi bắt cá dưới con suối thu hút đông đảo trai làng biểu diễn. Phần trình diễn ẩm thực của người Thái với những món ăn đặc sắc như: xôi ba màu, cá nướng, rêu nướng ngay bên bờ suối đầu bản... Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu, còn gọi là Lễ hội Cốm mới của đồng bào Thái trắng ở Lai Châu, diễn ra hằng năm vào cuối Thu trên cánh đồng Mường So, huyện Phong Thổ. Đây là dịp để đồng bào thể hiện lòng biết ơn trời đất, thần linh đã ban cho người dân mùa màng bội thu và nhiều điều tốt đẹp. Người Thái ở Phong Thổ tổ chức Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu để cầu cho dân làng và du khách nhiều điều tốt đẹp, luôn khỏe mạnh, no ấm; cầu mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Lễ hội Kin lẩu khẩu mẩu gồm 2 phần. Trong phần lễ diễn ra các nghi thức: rước hồn lúa; cúng hồn lúa; giã cốm, cầu bình an; cúng thần linh, cầu phúc và tạ ơn. Sau đó, vào phần hội, đồng bào và du khách cùng tham gia nhiều trò chơi dân gian truyền thống, điệu múa như: kéo co, nhảy sạp, ném còn và múa xòe.
Cho lúa vào cối để giã thành cốm. (Ảnh: Nguyễn Oanh/TTXVN) Nghi lễ giã cốm, cầu bình an đã thu hút đông đảo du khách trải nghiệm. Công việc chế biến lúa cốm khá phức tạp. Thóc được nướng trong lửa nhỏ, lật liên tục cho nóng đều đến khi nứt hạt và dậy mùi thơm. Theo quan niệm của người Thái, đây là công đoạn quan trọng quyết định độ ngon của cốm, bởi nếu quá lửa sẽ bị cứng, nếu non lửa sẽ mất đi độ dẻo. Khi nướng xong thóc thì cho vào cối giã, người giã phải đều tay, liên tục và nhịp nhàng để nhịp chày vừa đủ. Cốm giã xong được gói trong lá dong xanh, vừa tăng thêm màu xanh của cốm, vừa lưu giữ mùi thơm của sữa lúa... Lễ hội Hạn Khuống Hạn Khuống là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Thái. Lễ hội thường được tổ chức sau vụ thu hoạch vào tháng 11 hằng năm. Nam nữ thanh niên Thái cùng nhau vào rừng đốn vài cây rừng về dựng một sàn ở khu đất trống giữa bản, sàn có thể dựng bằng tre hoặc gỗ, sàn đó được gọi là Hạn Khuống nơi để nam nữ thanh niên Thái đến khắp (hát) đối đáp. Trên sàn Hạn Khuống chuẩn bị dụng cụ cho nam thanh, nữ tú hội tụ giao duyên; con gái Thái thì quay sợi, cán bông, dệt vải, thêu thùa bằng chỉ màu các loại, có bếp củi để đốt lửa. Dụng cụ cho trai Thái gồm có lạt xanh, lạt đỏ, lạt trắng để đan hom, đan giỏ, hoặc đan các con vật để tặng bạn gái, người mà trai Thái có ý tỏ tình trong đêm khắp (hát) đối giao duyên. Bên cạnh đó, còn có ống điếu và bó đóm bằng tre ngâm khô và thuốc lào. Ngoài ra, còn một số vật dụng khác để đan chải, đan vợt xúc cá... và các loại nhạc cụ như khèn bè, pí pặp, pí thiu, sáo trúc, đàn tính... Sàn Hạn Khuống dựng cao khoảng 1,2-1,5m, rộng chừng 0,6m, dài chừng 5m, xung quanh có lan can được trang trí hoa văn mang bản sắc dân tộc. Giữa sàn Hạn Khuống có cây nêu bằng tre to, dài để cả phần ngọn còn nguyên lá và trang trí các con giống đủ màu sắc gọi là “Lắc xáy chính." Cây “Lắc xáy chính” này mang bóng dáng của cây vũ trụ. Bốn góc sàn Hạn Khuống có 4 cây nhỏ trang trí đẹp mắt gọi là “Lắc xáy” và sàn đều có cầu thang lên xuống, được gọi là “San bó Han Khuông” (Sàn hoa Hạn Khuống).
Chủ thể Hạn Khuống thường chọn những thiếu nữ Thái xinh đẹp của bản mường, có đức-tài hát đối ứng gọi là "Xao tỏn khuống." Bốn cô gái ngồi ở bốn góc gọi là “Xao lắc xáy." Khi bếp lửa trên sàn bắt đầu nhóm lên, ngọn lửa cháy rực sáng cả một góc bản mường cũng là lúc các cô chủ Hạn Khuống rút thang lên, quay guồng xa của mình kéo sợi giăng ngang lối lên, xuống sàn Hạn Khuống và cuộc thi tài bắt đầu. Lúc này, các chàng trai Thái muốn lên sàn hoa thì phải thắng trong cuộc hát đối với các cô chủ sàn Hạn Khuống. Trang phụcKhi nói đến trang phục của người Thái, người ta thường liên tưởng đến những bộ trang phục lộng lẫy, làm nổi bật những đường cong quyến rũ của phụ nữ Thái. Với sự ưu ái đặc biệt cho vẻ đẹp nữ tính, những bộ trang phục này thường mang đến hình ảnh dịu dàng, thanh lịch và kín đáo. Mỗi bước di chuyển của họ đều phản ánh sự uyển chuyển và duyên dáng, tạo nên một vẻ ngoại hình đặc biệt đầy thu hút. Điều này làm cho người Thái, đặc biệt là phụ nữ Thái, luôn gìn giữ một vẻ đẹp lạ mắt và quyến rũ trong ánh nhìn của người đối diện. Trang phục của người Thái Trắng và Thái Đen chủ yếu giống nhau, sự phân biệt chủ yếu dựa vào sự chọn lựa màu sắc. Gái Thái Đen thường ưa chuộng áo màu đen hoặc màu sắc nổi bật, trong khi người Thái Trắng thường mặc áo màu trắng với cổ hình trái tim. Áo thường chia thành hai loại: áo ngắn tay cho phụ nữ có tuổi và áo độc dành cho thiếu nữ. Thiết kế áo thường rất ôm sát để tôn lên nét duyên dáng của phụ nữ. Về phần váy, chúng thường là váy quấn đơn giản, thường có màu đen trơn và ít họa tiết. Chiều dài của váy thường đến chấm gót chân. Thắt lưng không có những chi tiết phức tạp như người Thái Đen, thường chỉ là một tấm vải cotton hoặc tơ tằm với màu xanh hoặc tím nhạt. Khăn đội đầu không quá phức tạp, thường là màu trắng hoặc có chút họa tiết, và tóc thường được buộc cao hoặc buộc phía sau. Trang sức của người dân tộc Thái Một trong những điểm đặc biệt quan trọng của người phụ nữ Thái là sự thường xuyên đeo những chiếc vòng bạc to, dày và rực rỡ trên cổ. Với các cô gái Thái Đen, vòng bạc không chỉ là một phụ kiện mà còn là biểu tượng quan trọng của cuộc sống. Trong nghi lễ lấy chồng, của hồi môn của cô dâu thường bao gồm búi tóc độn, trâm cài tóc và đôi vòng bạc. Chiếc vòng bạc đó không chỉ mang ý nghĩa của việc đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ mà còn là biểu tượng của cam kết và tình yêu. Ngoài ra, phụ nữ Thái thường xuyên trang trí thêm vòng tay, khuyên tai và nhẫn bằng bạc. Những phụ kiện này không chỉ là những chiếc trang sức mà còn là một phần của truyền thống lâu dài. Chúng không chỉ thể hiện cá tính riêng biệt mà còn là cách phụ nữ Thái khẳng định giá trị bản thân và tạo ấn tượng trong mắt người xung quanh. |